View Full Version : Kiến Thức Hướng Dẫn - Thuyết Minh - Tuyến Điểm
tanlapfireco
14-01-2013, 12:46 PM
<img src="http://diendandulich.net/style_emoticons/<#EMO_DIR#>/wink.gif" style="vertical-align:middle" emoid=";)" border="0" alt="wink.gif" /> 10 phát minh vĩ đại nhất của người Hồi giáo<br /><br /> Ngày nay, khi nói đến Hồi giáo, hầu hết mọi người nghĩ ngay đến kinh Koran hay những phụ nữ đeo khăn bịt mặt, mà ít ai biết rằng chính người Hồi giáo đã phát minh ra nhiều thứ mà sau này được coi là hình ảnh của xã hội hiện đại. Dưới đây là 10 phát minh vĩ đại nhất của người Hồi giáo.<br /><br />1. Cà phê Chuyện kể rằng khi đang chăm nom đàn dê của mình ở vùng Kaffa, phía nam Ethiopia, một người Ảrập tên là Khalid phát hiện ra rằng những con dê có vẻ linh hoạt hơn hẳn sau khi ăn một thứ quả mọng. Khalid thử đun quả này lên để lấy nước uống, và đó chính là cốc cà phê đầu tiên trên thế giới.<br /><br /> 2. Cờ vua Sơ khởi, thời Ấn Độ cổ đại người ta đã phát minh ra một dạng cờ với 64 ô, gắn với truyền thuyết nổi tiếng về ông vua hào phóng ban thưởng cho người phát minh ra nó mỗi ô số hạt thóc gấp đôi số hạt thóc ở ô trước. Nhưng sau đó đến Ba Tư (Iran) trò này mới được phát triển thành dạng cờ vua như ngày nay và nhanh chóng phổ biến sang Tây Âu và cả các nước châu Á như Nhật Bản.<br /><br />3. Dù Một nghìn năm trước khi anh em nhà Wright người Mỹ phát minh ra máy bay, một nhà thơ, nhà thiên văn học, nhạc sỹ, nhà thiết kế người Hồi giáo tên là Abbas ibn Firnas đã nhiều lần thử chế tạo một cỗ máy biết bay. Năm 852, với hy vọng có thể bay như chim, ông này đã nhảy từ tháp Grand Mosque ở Cordoba với một chiếc áo choàng mềm được gia cố bằng khung gỗ, nhưng thất bại. Tuy nhiên, chính tấm áo choàng đã giúp giảm tốc độ rơi nên ông chỉ bị thương nhẹ và may mắn thoát chết. Đây được coi và cuộc nhảy dù đầu tiên của nhân loại. Hiện nay sân bay quốc tế Baghdad ở Iraq và một miệng núi lửa trên mặt trăng mang tên ông.<br /><br />4. Dầu gội đầu Có thể do tắm gội là quy định tôn giáo bắt buộc của người Hồi giáo nên chính họ là người đã hoàn thiện công thức chế tạo xà phòng mà đến nay chúng ta vẫn đang sử dụng. Trước đó, người Ai Cập cổ đại đã dùng xà phòng, người La Mã cũng dùng xà phòng như một loại sáp thơm. Nhưng chính những người Ảrập mới biết kết hợp dầu thực vật với chất xút và hương liệu để làm ra xà phòng.<br /><br /> 5. Áo giáp kim loại May chần là phương pháp khâu hoặc may hai lớp vải với một lớp lót ở giữa. Hiện vẫn chưa rõ đây có phải là phát minh của thế giới Hồi giáo không, hay du nhập từ Ấn Độ hoặc Trung Hoa. Nhưng có một điều chắc chắn là nó do quân thập tự chinh mang sang phương Tây. Người ta đã thấy các chiến binh Saracen mặc áo bạt độn rơm thay cho áo giáp, vừa để bảo vệ, vừa giữ ấm. <br /><br />6. Phẫu thuật Nhiều dụng cụ phẫu thuật hiện đại có cùng thiết kế với các dụng cụ do một nhà phẫu thuật người Hồi giáo tên là al-Zahrawi phát minh ra từ thế kỷ thứ 10. Có thể dễ dàng nhận thấy trong các dụng cụ phẫu thuật hiện đại kiểu dáng của chiếc dao mổ, cưa xương, kẹp forcep, kéo nhỏ dùng trong phẫu thuật mắt và nhiều trong số 200 dụng cụ khác do ông phát minh. Al-Zahrawi cũng chính là người phát minh ra chỉ ruột mèo có tính năng tự tiêu và có thể dùng làm vỏ thuốc con nhộng. 300 năm trước khi nhà khoa học William Harvey người Anh phát hiện ra sự tuần hoàn máu, vào thế kỷ 13, một bác sĩ người Hồi giáo khác tên là Ibn Nafis đã mô tả quá trình tuần hoàn máu. Cũng chính các bác sĩ người Hồi giáo đã tìm ra phương pháp gây mê bằng hỗ hợp rượu và thuốc phiện, cũng như đã chế tạo ra kim rỗng ruột để hút chất nhầy từ mắt. Phương pháp này còn được áp dụng đến tận ngày nay.<br /><br />7. Xúp Vào thế kỷ 9, ông Ali ibn Nafi, thường được biết đến với tên Ziryab (Hắc điểu), đã đi từ Iraq sang Cordoba, mang theo khái niệm về một bữa ăn gồm ba món, bắt đầu với xúp (món khai vị), sau đó đến cá hoặc thịt và cuối cùng là hoa quả hoặc các loại quả hạch (tráng miệng). <br /><br />8. Thanh toán bằng séc Séc (Cheque) hiện đại xuất phát từ saqq – tờ giấy cam kết trả tiền mà người Ảrập dùng để thanh toán khi giao nhận hàng hóa, nhằm tránh phải chuyển tiền qua những nơi nguy hiểm. Ngay từ thế kỷ thứ 9, các thương gia Hồi giáo đã có thể dùng séc ở Trung Quốc để rút tiền từ ngân hàng ở Baghdad (Iraq). <br /><br />9. Hỏa tiễn và ngư lôi Mặc dù người Trung Hoa phát minh ra thuốc súng và dùng làm pháo hoa, nhưng người Ảrập mới chính là người nghĩ ra cách tinh chế thuốc súng để phục vụ quân đội. Các thiết bị gây cháy của người Hồi giáo đã khiến quân thập tự chinh phải khiếp sợ. Vào thế kỷ 15, họ đã phát minh ra cả hỏa tiễn và ngư lôi. <br /><br />10. Cối xay gió Mùa khô tại các vùng sa mạc rộng lớn ở Ảrập chỉ có một thứ năng lượng duy nhất là gió, thổi ổn định theo một hướng trong nhiều tháng. Do đó vào năm 634, người Hồi giáo đã phát minh ra cối xay gió để xay ngô và thoát nước. Cối xay gió có 6 hoặc 12 cánh phủ vải hay lá cọ. Loại cối xay gió này đã có từ 500 năm trước khi xuất hiện lần đầu ở châu Âu.<br /><br />.................................................. ..............................<br />.................................................. ...................<br /> <img src="http://diendandulich.net/style_emoticons/<#EMO_DIR#>/wink.gif" style="vertical-align:middle" emoid=";)" border="0" alt="wink.gif" /> <b>Sự kiện Thiên An Môn</b><br /> <br />"Người biểu tình vô danh" - Bức ảnh nổi tiếng này do Jeff Widener thuộc Liên hiệp các nhà nhiếp ảnh báo chí chụp, miêu tả một người biểu tình đơn độc, được cho là công dân Wang Wei-Lin ở Bắc Kinh, đứng chặn một đoàn xe tăng trong hơn nửa giờ.Cuộc biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989, cũng được biết đến với cái tên vụ Thảm sát quảng trường Thiên An Môn, Cuộc xô xát ngày 4 tháng 6, hay Tình trạng náo động từ mùa Xuân tới mùa Hè năm 1989 theo chính phủ Trung Quốc, là một loạt những vụ biểu tình do sinh viên, trí thức và những nhà hoạt động công nhân lãnh đạo ở Cộng hoà nhân dân Trung Hoa từ 15 tháng 4, 1989 và 4 tháng 6, 1989, (theo chính quyền Trung Quốc) đã khiến từ 400 đến 800 dân thường thiệt mạng, và từ 7,000 đến 10,000 người bị thương. Một báo cáo ban đầu từ các bệnh viện địa phương đưa ra con số khoảng 2,000.<br /><br /><br />Tên gọi<br />Vụ xô xát được đặt tên theo vị trí diễn ra sự đàn áp phong trào ở Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh của Quân đội giải phóng nhân dân. Những người biểu tình thuộc nhiều nhóm khác nhau, từ các trí thức tin tưởng rằng chính phủ do Đảng cộng sản lãnh đạo quá tham nhũng và hà khắc, tới những công nhân thành thị tin rằng cải cách kinh tế Trung Quốc đã đi quá xa dẫn tới lạm phát tăng cao và tình trạng thất nghiệp lan tràn đe doạ cuộc sống của họ.<br /><br />Sau khi những người biểu tình bất chấp kêu gọi giải tán của chính phủ, một sự chia rẽ xảy ra bên trong Đảng cộng sản về việc giải quyết vấn đề với những người biểu tình theo cách nào. Trong những nhóm đang tranh cãi nhau, một phe cứng rắn nổi lên và quyết định đàn áp cuộc biểu tình, và không cần để ý tới những yêu cầu của họ.<br /><br />Ngày 20 tháng 5 chính phủ tuyên bố thiết quân luật và vào đêm ngày 3 tháng 6, sáng ngày 4 tháng 6, xe tăng và bộ binh quân đội được gửi tới quảng trường Thiên An Môn để tiêu diệt phong trào và giải tán những người biểu tình. Những ước tính về con số thiệt mạng dân sự từ: 400-800 (CIA), 2600 (Chữ thập đỏ Trung Quốc), và một nguồn chưa được xác định khác là 5000. Số người bị thương từ 7,000 đến 10,000. Tiếp sau cuộc bạo lực, chính phủ tiến hành nhiều cuộc bắt giữ để đàn áp những người ủng hộ phong trào, cấm đoán báo chí nước ngoài và kiểm soát nghiêm ngặt việc đưa tin các sự kiện của báo chí Trung Quốc. Cuộc đàn áp bằng bạo lực đối với những người biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn đã gây nên sự chỉ trích rộng rãi của quốc tế đối với chính phủ PRC.[1]<br /><br />Trong tiếng Trung Quốc, vụ này thường được gọi là Sự kiện mùng 4 tháng 6 (六四事件) hay Phong trào mùng 4 tháng 6 (六四运动). Cái tên sau đặt theo kiểu tên của hai hành động phản kháng khác cũng xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn: Phong trào mùng 4 tháng 5 năm 1919, và Phong trào mùng 5 tháng 4 năm 1976.<br /><br /><br />Bối cảnh<br />Tháng 4 năm 1989, khi Hồ Diệu Bang mất, dân chúng Trung Quốc đã nhân tang lễ ông, tổ chức nhiều vụ xuống đường biểu tình. Chính thức là để tỏ lòng thương tiếc một người thuộc xu hướng cải cách, song các cuộc biểu tình này thực ra là để phản đối lạm phát và nạn tham nhũng. Vào thời điểm ấy, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô là Mikhail Gorbachev lại thăm viếng Bắc Kinh sau nhiều năm gián đoạn quan hệ Liên Xô-Trung Quốc.<br /><br />Đây là biến cố quốc tế nên đông đảo truyền thông thế giới có mặt để tường thuật. Các cuộc biểu tình kéo dài khiến lãnh đạo Bắc Kinh lúng túng. Vì muốn thách thức Gorbachev tiến hành cải cách nên họ không dám ngăn chặn biểu tình, trong khi nhiều đảng viên cao cấp lại tỏ vẻ ủng hộ, thậm chí yểm trợ dân biểu tình.<br /><br />Đến khi sự việc xảy ra quá tầm kiểm soát của chính quyền thì họ chỉ còn giải pháp là tắt đèn nổ súng. Triệu Tử Dương muốn can cả hai, là chính quyền và dân biểu tình, mà không nổi. Ông xuất hiện lần cuối, giữa đám biểu tình vào ngày 19 tháng 5, 1989, với nước mắt lưng tròng và tay cầm loa để nói là mình đến quá trễ.<br /><br />Hơn 10 ngày sau, quân đội tiến vào thủ đô Bắc Kinh, yêu cầu báo chí rút lui và rạng ngày 4 tháng 6, đám biểu tình bị giải tán, hàng ngàn người bị tàn sát ngay tại quảng trường Thiên An Môn. Con số chính thức là bao nhiêu thì Bắc Kinh không nói và không ai biết được. Con số bán chính thức từ bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là 2.600 người.<br />Theo Từ điển Bách khoa tòan thư
dugarco
14-01-2013, 12:46 PM
Đúng vậy! thế là chẳng còn bao lâu nũa là đến ngày lễ thánh Valentin.<br /> <img src="http://diendandulich.net/style_emoticons/<#EMO_DIR#>/sad.gif" style="vertical-align:middle" emoid=":(" border="0" alt="sad.gif" /> Đọc bài post của Mr Hùng em lại nhớ đến những kỷ niệm về những ngày "hòanh tráng", "đỉnh cao" của cái thời "anh hùng sặc nước" đem hoa tăng bao nhiêu "nàng" trong mộng và cũng bao lần... ngày hôm sau ngậm ngùi tiếc nuối nhìn những bông hoa hồng đỏ rói của mình nằm chỏng queo trong... thùng rác đầu cổng nhà "nàng Juliét".<br /> <img src="http://diendandulich.net/style_emoticons/<#EMO_DIR#>/tongue.gif" style="vertical-align:middle" emoid=":P" border="0" alt="tongue.gif" /> Nhưng đến hẹn lại lên, năm này " dù nghèo em cũng cố gắng cho con xuống phố". Em lại tiếp tục bước vào "cuộc chiến". Hy vọng dịp Valentin này em không phải đọc tác phẩm " mải mể chinh chiến và yêu đương".<br /><br />Theo em đươc biết thì ngày Valentine (còn gọi là ngày lễ Tình yêu hay ngày Tình yêu), 14 tháng 2 dương lịch hàng năm, là ngày của các lứa đôi yêu nhau muốn trao đổi cho nhau các thông điệp tình yêu. Vào ngày này, nhiều nước trên thế giới có truyền thống tặng nhau chocolate.<br /><br />Có rất nhiều thông tin về nguồn gốc của ngày lễ này.<br /><br />Ý kiến 1: Valentine chính là một linh mục dưới thời Hoàng đế La Mã Claudius II. Lúc bấy giờ là thế kỷ thứ 3, khi La Mã đang trong thời chiến. Theo quan điểm của Hoàng đế Claudius II, đàn ông độc thân thiện chiến hơn nhiều so với những ai đã có vợ con với vô vàn lo toan. Thế là ông ra lệnh cấm tất cả thanh niên trai tráng lấy vợ. Linh mục Valentine đã chống lại sắc lệnh của vị hoàng đế hùng mạnh, vẫn bí mật cử hành lễ cưới cho các đôi vợ chồng trẻ. Khi bị phát hiện, Valentine đã bị tử hình. Để tưởng niệm, mọi người bấy giờ quyết định lấy ngày mất của Thánh Valentine làm ngày hẹn hò và đính ước. Dần dần theo thời gian, người ta có nhiều thay đổi trong ngày lễ này, ví dụ tặng Sô-cô-la cho người yêu. Đây là giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất. <br /><br />Ý kiến 2: Valentine chính là người gửi tấm thiệp Valentine đầu tiên. Lúc bị giam vào ngục, Valentine đem lòng yêu một cô gái. Oái oăm thay, đó lại chính là con gái của kẻ đã bắt giam ông. Trước khi ra pháp trường (cũng vào ngày 14/2), ông viết một lá thư cho người yêu rồi ký tên "From your Valentine" (người gửi: Valentine của em). Đến nay, mọi người vẫn có thói quen không viết tên dưới các tấm thiệp gửi trong ngày 14/2 mà dùng lại cụm từ "From your Valentine"... <br /><br />Tất cả truyền thuyết đều nói rằng: Valentine là một người có trái tim nhân ái, anh hùng và lãnh mạn. Vì vậy, tất cả những người si tình đều lấy tên ông ký tên trong những bức thư tỏ tình vào ngày 14/2.<br /><br />Người Anh và Pháp đã tổ chức lễ này từ thời Trung cổ, nhưng đến thế kỷ XVII, tập tục tặng thiệp làm bằng tay cho người yêu mới phổ biến. Hình ảnh thường thấy là hình trái tim, hoa hồng, mũi tên và vị thần tình yêu Cupid.
seaf34
14-01-2013, 12:46 PM
<b>VÌ SAO ISLAM CHO PHÉP ĐÀN ÔNG CÓ ĐẾN 4 VỢ ?</b><br /><br />Như chúng ta được biết, trong một số trường hợp đa thê có thể được xem là phương cách khả thi mang lại quân bình cho xã hội. Chính vì thế việc này được thấy thể hiện trong các nền văn hóa lâu đời và ngay cả trong những tôn giáo trước thời Islam. Tuy nhiên vào thời ấy, không có luật ràng buộc vấn đề này trong một giới hạn nào cả, người ta có thể lấy hàng chục, hàng trăm người vợ. Và khi Islam đến, Thiên kinh Qur’an chỉ cho phép hành xử sự việc này ở một mức giới hạn thật rõ ràng với con số hạn định tối đa là 4. Ngày nay, trên thực tế chỉ có 2% người đàn ông Muslim lập gia đình trong khuôn khổ của sự cho phép ấy mà thôi. <br /><br />Islam cho phép nhưng không khuyến khích nam giới phải lấy 4 vợ. Qur’an còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của người đàn ông trong việc tạo dựng một gia đình êm thắm, tạo một sự công bằng đối với vợ hoặc các người vợ, bảo đảm một cuộc sống đầy đủ cho tất cả cùng với việc giáo dục nghiêm túc những đứa con của họ. Nếu không thực hiện được như trên Qur’an quy định rằng chỉ nên một vợ là tốt hơn cả. <br /><br />Cho nên đa thê thực sự là một gánh nặng cho người đàn ông, nó không phải là hành trình hưởng thụ đam mê lạc thú như người ta đã nghĩ và thậm chí có nhiều ý tưởng phát xuất từ những đầu óc bệnh hoạn tưởng tượng đến những cuộc giao hoan tập thể giữa người đàn ông với các bà vợ của anh ta ! Xin nhắc lại, xã hội Muslim không chấp nhận chế độ nhân tình vụng trộm, không chấp nhận cuộc sống buông thả trụy lạc, những hành động luyến ái đi ngược lại luân thường đạo lý thì cái tư tưởng bệnh hoạn kể trên là một điều nghiêm cấm triệt để trong Islam. <br /><br />Trong quyển Islam : The straight path, nơi trang 97 John Esposito có giải thích rằng : « Mặc dầu sự đa thê vẫn được tìm thấy trong các văn hóa và tôn giáo khác nhưng phải công nhận rằng nó được Islam nói đến và phân định rõ rệt hơn cả. Điều này chứng tỏ Qur’an và luật của tôn giáo này nắm vững, ổn định được chuyện vợ chồng, hơn là để cho nó bộc phát một cách bừa bãi vô luật pháp. Qur’an còn giới hạn cho người đàn ông ở con số 4 vợ, trong một xã hội mà vấn đề này được xem là có truyền thống vô giới hạn. Lại còn áp đặt trách nhiệm và nêu cách cư xử công bằng của người chồng đối với các bà vợ thì đây mới quả là điều không tưởng. Người Muslim xem chỉ đạo này của Qur’an như là việc đề cao nhân phẩm người phụ nữ, một sự bảo đảm cho họ tránh được những sa ngã trước các cạm bẫy trong đời sống… » <br /><br />Nữ tác giả Karen Amstrong cũng có một lối nhìn như trên, bà nói : « Chúng ta thử nhìn luật lệ đa thê trong bối cảnh xã hội Ả rập vào thế kỷ thứ 7, người đàn ông có quyền chọn không biết bao nhiêu vợ mà họ muốn, khi ra lệnh giới hạn 4 vợ thì việc này đối với họ được xem như là điều áp bức…. Bà viết tiếp : Quả là điều đáng tiếc khi giới truyền thông Phương tây tạo những ấn tượng sai lầm về tất cả những gì Islam nêu lên. Những phim ảnh thông thường như HAREM cố tình dàn dựng các hình ảnh lố bịch rẻ tiền, gọi là tiết lộ về cuộc sống tình dục của người Muslim với sự tưởng tượng quái dị mà họ không ngần ngại thổi phồng và gán cho đó là sự thật ! » (Muhammad :A Western Attempt to Understand Islam, trang 190 và 191). <br /><br />Ira Zepp, trong quyển sách của ông ở trang 181 đã bình luận như sau : « Ðể tìm giải pháp quân bình trước hiện tượng nhân số phụ nữ ngày một dư thừa ở các nước châu Phi, giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đang trực diện với các sự việc khó xử tại đây. Vấn đề xã hội và kinh tế là những nguyên nhân chính thúc đẩy Nhà Thờ phải xem sự đa thê như là giải pháp chọn lựa cho giáo dân. » ( Theo Polygamy Reconsidered , của Eugene Hillman, New York, Orbit Press, 1973). <br /><br />Tóm lại Qur’an luôn nêu lên những vấn đề thiết thực, thích hợp với tự nhiên, đáp ứng được các uẩn khúc phức tạp nhất của xã hội và của nhân tánh. Tìm hiểu chế độ đa thê trong Qur’an thiết nghĩ cần phải đặt vấn đề một cách đứng đắn và nên đối chiếu trong khuôn khổ các sự kiện xã hội, lịch sử. Hiện nay tuyệt đại đa số người Muslim đều là một vợ một chồng, chỉ một thiểu số đã tạo ra trường hợp ngoại lệ. Hơn nữa tỷ lệ đa thê ở các nước phương Đông nào có vượt quá tỷ lệ này ở các nước phương Tây, nơi mà hành vi ấy cũng có một cách thường nhưng diễn ra trong lén lút và bất hợp pháp.
haodatco
14-01-2013, 12:46 PM
<b>TẠI SAO PHỤ NỮ MUSLIM CHOÀNG KHĂN ĐẦU?</b><br /><br />Người phụ nữ Muslim choàng khăn đầu là để tỏ lòng tuân phục vào Ðấng Thượng Ðế vì trong Thiên Kinh Qur’an, Ngài đã đề cập một cách cụ thể về việc này cho riêng họ (xem Qur’an chương 24, dòng 31). <br /><br />Sự hướng dẫn quý giá của Thượng Ðế về khía cạnh ngoại hình đã bao quát một phạm vi rộng lớn là để bảo vệ từ ý tưởng đến hành động của cả hai giới, nam cũng như nữ cho luôn được thanh khiết và cao thượng. <br /><br />Nam nữ thọ thọ bất thân.Giáo luật Islam rất chặt chẽ và nghiêm khắc trong các vấn đề liên hệ, sự tiếp xúc của nam, nữ trưởng thành và cảnh báo cho họ là phải biết đo lường, thận trọng để tránh khỏi rơi vào những cạm bẫy của tội lỗi. Mỗi đo lường là một quy định, có tính cách bắt buộc cho cả nam lẫn nữ, để họ cảnh giác, tránh càng nhiều càng tốt việc gần gũi, chung chạ trong cuộc sống. Vì thế trong việc dâng lễ nguyện, các thánh đường đều có những nơi riêng dành cho nam phái và nữ phái. <br /><br />Mặt khác, đàn ông và đàn bà đều phải ý thức trong việc ăn mặc, che đậy kín đáo thân thể để tránh sự khuấy động khêu gợi dục tính (xem Qur’an chương 7, dòng 26 ; chương 33, dòng 59). Thiên Kinh này còn khuyên họ phải biết kiềm chế, hạ thấp tầm nhìn, tránh đối diện với những phô bày lộ liễu ( Xem Qur’an chương 24, dòng 31). <br /><br />Quan niệm cho rằng phụ nữ Muslim choàng khăn che đầu là vì cam chịu với thân phận hẩm hiu của người đàn bà, điều này quả là vô căn cứ và không ai tìm thấy một lời nào như thế trong Qur’an cả. Trớ trêu thay, tư tưởng ấy lại được đề cập đến trong các sách của những tôn giáo khác, điều mà ngay cả Islam cũng chẳng bao giờ chấp nhận được. Các sách ấy cho rằng phụ nữ nên có một dấu hiệu làm tin, như che đầu của họ lại, vì đàn ông không được tạo ra từ đàn bà mà ngược lại đàn bà là từ đàn ông mà có. Cũng những sách ấy cho rằng đàn ông không cần phải che đầu vì họ là hình ảnh và là niềm vinh quang của Thượng Ðế, còn phụ nữ thì phải che kín đầu lại vì họ chỉ là người thừa hưởng sự vinh quang của đàn ông. Thiên Kinh Qur’an không thể nào đồng cảm với những ý tưởng thô thiển như thế, choàng khăn đầu là một quy lệnh của Thượng Ðế phán trong Qur’an. Nó chẳng phải là biểu hiện của lòng cam phận hay thụ động chấp nhận bị khuất phục trước người đàn ông một cách vô tội vạ như thế. <br /><br />Người ta thường diễn giải một cách mập mờ ý nghĩa các quy luật trong Islam để cố tình đưa những ý tưởng cợt nhã của họ vào phỉ báng tôn giáo này. Cho nên khi thấy một phụ nữ Muslim choàng khăn che đầu, ăn mặc kín đáo là họ vội vàng kết luận theo cùng với những lý lẽ đã được đề cập trong sách của các tôn giáo khác. Chỉ trừ những người thật tâm, tìm hiểu, so sánh và đối chiếu những quy luật ấy trong khuôn khổ Islam thì mới lĩnh hội được thế nào là Mệnh Lệnh của Thượng Ðế. <br /><br />Thậm chí khăn choàng đầu của phụ nữ còn bị quàng vào các lầm lẫn tai hại khác. Chẳng hạn như Qur’an có nói đến câu chuyện của ông Adam và bà Eva, thế là người ta chẳng ngần ngại mà phê chuẩn là Qur’an cũng đồng tình cho rằng chính bà Eva chịu trách nhiệm về sự sa ngã của loài người, nên phụ nữ phải chịu khuất phục trước người đàn ông, vì đó là lời nguyền của Thượng Ðế ! Ngược lại, theo Qur’an, Adam và Eva cả hai đều cùng vướng vào sự gạ gẫm của sa-tăng, cả hai đều có lỗi, không phải sa-tăng xúi giục Adam xuyên qua Eva. Chính vì thế mà Adam mới bị khiển trách (xem Qur’an chương 20, dòng 121). Ở dòng khác thì cả hai đều bị khiển trách, nhưng chẳng thấy có một chương nào hay dòng nào, Ðấng Từ Bi Ðộ Lượng lên án riêng bà Eva. <br /><br />Có lẽ người ta đã lầm lẫn khi kết hợp các quy luật của Islam với những ý tưởng xuất phát từ bên ngoài tôn giáo này. Trong Islam, phái nữ được xem có khả năng và tài giỏi như phái nam và trước Thượng Ðế tất cả mọi người đều bình đẳng.
eddie.chung
14-01-2013, 12:46 PM
Tại Sao 108 Hạt Chuỗi ?<br /><br /> <br /> <br />- Phật giáo nhìn vào vũ trụ nhân sinh, không phải là duy vật, không phải duy tâm, cũng không phải là duy thần. Mà, Phật giáo nhìn vào sự hình thành của con người ở ba trạng thái kết hợp nhau là tâm, sinh và vật lý. Hay nói bằng danh từ Phật học là sự duyên hợp của ngũ uẩn, tứ đại; hoặc căn, trần và thức. <br /><br />Căn là nói về sinh lý, trần là vật lý, và thức là tâm lý. Căn, trần và thức tụ hội nhau để tồn tại. Nếu lìa một chỉ còn hai thì thế giới sẽ không tồn tại. Vậy căn, trần, thức là gì?<br /><br />Căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Từ nơi sáu căn tiếp xúc sáu trần sanh ra sáu thức. Thức tạo tác vọng động, tạo nghiệp hoặc thiện hoặc ác để trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Dụ như mắt nhìn thấy sắc đẹp của một người (nam hoặc nữ), liền khởi tâm say đắm, từ nơi đắm mê sắc đẹp mà tạo nên hành nghiệp. Cho đến tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi thơm, thân chạm xúc những chỗ trơn láng mềm mại, ý suy nghĩ ghét, thương, hận, thù…Lục căn là công cụ sai khiến của lục thức để tạo tác hành nghiệp thiện hoặc ác. Từ nơi hành nghiệp tích tụ chứa nhóm mang đi trong sáu nẻo luân hồi, từ quá khứ đến hiện tại, và, sẽ tiếp diễn trong tương lai; để chịu khổ trong vòng luân hồi.<br /><br />Quá khứ do sáu căn không thanh tịnh, chạy theo trần cảnh khởi lên đắm trước tạo nghiệp: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Và trong đời vị lai ta lại cũng theo con đường cũ tạo nghiệp sanh tử tham, sân,… nầy mà đi.<br /><br />Từ nơi mắt thấy sắc tạo nên sáu món căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến; cho đến mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, mỗi căn đều tạo nên sáu phiền não căn bản giống nhau: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Mỗi căn chúng ta có sáu thứ căn bản phiền não, và; như vậy, sáu giác quan đã tạo nên 36 thứ phiền não trong đời sống thường ngày.<br /><br />Do đó, như trên đã nói cuộc đời của chúng ta liên tục nối tiếp trong ba đời từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Như vậy, trong ba đời ta đã tạo thành 108 thứ phiền não để làm hành trang trong đoạn đường sanh tử không cùng tận. Cho nên, bây giờ chúng ta lần tràng hạt 108 lần trong khi niệm Phật, là quyết tâm đoạn trừ 108 món phiền não mà mình đã tạo trong ba đời. Đoạn trừ 108 món phiền não cũng có nghĩa là làm cho sáu căn thanh tịnh.<br /><br />Sáu căn từ trước đến nay chạy theo sáu trần, khởi lên sáu món phiền não căn bản: tham, sân, si,….bây giờ ta lần tràng hạt niệm Phật, là ngăn cản không cho sáu căn vọng động chạy theo cảnh trần, và, giúp cho sáu căn quay về với tự tánh.<br /><br />Sáu căn cảm nhận sáu trần sanh ra sáu thức, thức vọng động tạo nghiệp luân lưu trong vòng sống chết. Lần tràng niệm Phật là không cho căn nhiễm với trần; căn không nhiễm trần tức căn thanh tịnh, căn đã tịnh thì nghiệp không còn, nghiệp đã dứt sanh tử đoạn diệt. Ấy gọi là giải thoát, hoặc vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.<br /><br />Thấu triệt được lý đạo như vậy thì không còn vọng niệm phân biệt pháp tu này hơn pháp tu khác. Hoặc cho rằng đức Thích Ca xưa kia do Thiền Tọa mà thành Phật chứ không phải niệm Phật mà thành chánh quả. Hoặc còn tệ và vọng niệm hơn khi tuyên bố rằng: thầy Tổ đã khuyên bảo ta trong thời mạt pháp lấy pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh là trốn tránh, không thích ứng với lời Phật dạy.
Nguyên Do Thành Lập Đạo Cao Đài <br /><br />bất cứ thời đại nào, khi con người quá khốn khổ, khi xã hội dẫy đầy tội ác, lọan lạc thì <br />một tôn giáo ra đờị Từ ngàn xưa khắp thế giới nhân lọai đã hữu phước có những tôn <br />giáo như Ấn Độ Giáo, Do Thái Giáo, Bái Hỏa Giáo (Zoroasterism), Phật Giáo, Lão Giáo, <br />Khổng Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo v. v.... Xuyên qua các tôn giáo, người ta thấy rằng <br />dù được thành lập ở những nơi khác nhau, vào những thời kỳ khác nhau, dưới những hình <br />thức khác nhau, các tôn giáo đều có cùng một chơn lý. Chơn lý đó là một quyền năng tối <br />cao, một Đấng Tạo Hóa tạo nên càn khôn thế giới và muôn lòaị Đấng Tạo Hóa luôn luôn <br />ngự trong tâm khảm của con ngườị Các tôn giáo gọi Đấng Tạo Hóa bằng những danh từ <br />khác nhaụ Ấn Độ Giáo gọi là Chơn Như Đại Linh Quang, Do Thái Giáo gọi là Jehovah, Bái <br />Hỏa Giáo gọi là Ahura Mazda, Phật Giáo gọi là Phật Tánh, Lão Giáo là Đạo, Khổng Giáo <br />gọi là Thái Cực. Thiên Chúa Giáo gọi là Đấng Christ Hồi Giáo gọi là Allah, và con người <br />gọi nôm na là Ông Trời, God, Dieu .... <br />Nhưng rồi qua thời gian, chơn lý càng ngày càng bị tam sao thất bổn. Chúng sanh có khuynh <br />hướng thiên về vật chất, càng đua tranh hiềm khích nhau, kỳ thị nhau vì tôn giáo khác biệt, <br />thậm chí tàn sát lẫn nhau qua những cuộc thánh chiến dai dẳng. Tình người giữa cha con, vợ <br />chồng, anh em, bạn bè thì bị vật chất chi phốị Trước những tệ trạng hiện tại, những khuynh <br />hướng đại đồng được thành lập để làm một nhịp cầu liên kết các tư tưởng và triết lý Đông <br />Tây như Đạo để chỉ cho con người thấy rằng. <br />"Mọi tôn giáo đều có cùng một nguyên lý." <br />Đức Chí Tôn dạy: <br />Nhiên Đăng Cổ Phật thị ngã, <br />Thích Ca Mâu Ni thị ngã, <br />Thái Thượng Nguơn Thỉ thị ngã, <br />Kiêm viết Cao Đàị <br />hay là: <br />Phật Trời, Trời Phật cũng là ta <br />Nhánh nhóc chia ba cũng một Già <br />Thích, Đạo, Gia Tô tay chưởng quản, <br />Thương dân xuống thế độ lần bạ <br />Đức Chí Tôn cũng còn dạy rằng: "Khi lập càn khôn thế giái rồi, Thầy phân tánh Thầy <br />mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, thú cầm và nhân lọai gọi là chúng sanh. <br />Vậy các con đủ hiểu rằng mỗi vật hữu sanh nơi thế gian đều do chơn linh Thầy mà ra, <br />có sống ắt có Thầy, Thầy là cha sự sống." <br />Hay nói cách khác, tất cả con người dầu thuộc sắc dân nào, dù thuộc giai cấp nào cũng <br />đều là anh em với nhau có cùng một Đấng Cha Trờị Mỗi chúng sanh đều có một phần chơn <br />linh của Thượng Đế. Vì vậy Đức Chí Tôn mới dạy: "Thầy là các con, các con là thầỵ" <br />Thật ra những lời dạy của Đức Thượng Đế Cao Đài không khác chi những lời dạy của Ngài <br />trong những ngàn năm về trước khi Ngài mở Đạo Tiên, Đạo Phật, Đạo Nho, Đạo Thánh. <br />Trong Ấn Độ Giáo có dạy: "Thượng Đế là đại linh quang, con người là tiểu linh quang". <br />Đức Chúa Jesus dạy: "Ta và Cha Ta là một". <br />Tuy nhiên, với thời gian, con người càng ngày càng chú trọng đến hữu vi sắc tướng, đến vật <br />chất bên ngòai mà quên đi bản thể cao quí ở trong lòng mình và vì vậy càng ngày càng xa <br />Chơn Đạọ Để tái tạo cho thế giới nhân lọai một đời sống thánh đức, thái bình an lạc, Đức <br />Thượng Đế lập nên Đạo Cao Đài, dạy cho mổi người phải biết mình và mọi người cùng là <br />anh em với nhau, vì ai ai cũng có một phần chơn linh của Đấng Cha Trời, và mọi tôn giáo ở <br />thế gian đều có cùng MỘT LÝ.<br /><br />Mục Đích Của Đạo Cao Đài <br /><br />Mục đích gần: Hướng dẫn chúng sanh làm tròn nhơn đạo, thương yêu lẫn nhau và tôn trọng lẽ <br />công bình hầu tạo nên một cuộc đời thánh đức, thái bình an lạc ở thế gian. <br />Mục đích tối hậu: Mục đích tối hậu của đạo Cao Đài là giúp cho con người giải thoát. Giáo <br />hóa con người ý thức rằng đời là cõi tạm vô thường, sự nghiệp hạnh phúc kễ cả mạng <br />sống đều không bền vững. Thân thể con người là một khối máu thịt hợp với thất tình lục <br />dục và nghiệp lực quá khứ, ngoại trừ một điểm chơn linh cao quí. Cõi trần là dục giới, có <br />nhiều quyến rũ, lôi cuốn mê hoặc làm cho lòng tham dục con người luôn bị dấy động, khát <br />vọng gia tăng, nên lầm lũi chạy theo ngoại cảnh cầu thỏa mãn, vì thế mà chịu ảnh hưởng của <br />sự đắc thất, vui buồn, khổ lụy, lòng không lúc nào được an ổn để đủ sáng suốt mà tự biết <br />mình vốn có một điểm chơn linh cao quí, tức là chơn tâm phật tánh bên trong, đang bị lòng <br />tham dục che lấp. Mục đích tối hậu là dạy con người hướng vào nội tại tâm hồn, tu theo Thiên <br />Đạo để tỏ ngộ tự tánh, tìm thấy bổn tánh đồng thể cùng Đức Chí Tôn Thượng Đế đạt cơ <br />giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi đau khổ. Đức Chí Tôn dạy: <br />Một ngày thỏn mỏn một ngày qua <br />Tiên, Phật nơi mình, chẳng ở xa <br />Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ <br />Cửa Tiên xuất nhập cũng như nhà. <br />Thánh ngôn: <br />"�Ta vì lòng đại từ, đại bi, lấy đức háo sanh dựng nên nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. <br />Tôn chỉ là vớt kẻ hữu phần vào địa vị cao thượng để tránh khỏi luân hồi và nâng <br />đỡ kẻ có tánh đức vào cõi an nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở cõi trần thế nàỵ" <br />Đạo Cao Đài được chia làm hai phần, phổ độ và vô vi để thích ứng với trình độ tâm linh của <br />chúng sanh. <br />1- Phần Phổ Độ hay là phần nhơn đạo: Trong phần này người tín đồ Cao Đài tu tâm sửa <br />tánh để làm tròn nhơn đạo: <br />* Làm lành lánh dữ, <br />* Biết thương yêu và tránh sát hại chúng sanh, vì mỗi chúng sanh là một phần chơn linh của <br />Thượng Đế và chơn linh ấy cũng như chúng ta đang chịu ảnh hưởng của luật luân hồi nhân <br />quả. <br />* Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ và độ dẫn chúng sanh. Phần đông tín đồ Cao Đài tu <br />theo nhơn đạọ <br />Thánh ngôn: <br />"Các con sanh trưởng nơi thế gian này, khi tử hậu các con đi về đâủ Cả kiếp luân hồi <br />của chúng sanh, thay đổi từ vật chất ra thảo mộc, từ thảo mộc ra côn trùng, từ côn <br />trùng ra thú cầm, loài người phải chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến <br />địa vị nhân phẩm. Nhân phẩm chia ra nhiều hạng. Bậc đế vương nơi địa cầu này chưa <br />bằng bậc chót của nhân phẩm ở địa cầu 67: số địa cầu càng tăng lên, nhân phẩm <br />càng cao trọng. Mãi đến đệ nhất địa cầu, Tam Thiên Thế Giái rồi mới đến Tứ Đại <br />Bộ Châu rồi mới vào Tam Thập Lục Thiên; qua Tam Thập Lục Thiên rồi phải còn <br />chuyển kiếp tu nữa mới vào Bạch Ngọc Kinh, Phật gọi là Niết Bàn. Một kẻ kia, tuy có <br />chân trong tôn giáo, đã làm tròn nhân đạo, tức là làm xong bổn phận làm người thì <br />buổi chung qui cứ theo nấc trên mà tiến lần. Trên đường về Thầy, các con thử nghĩ <br />ngày nào mới đến? Vì vậy nên Thầy ban cho nhân loại một quyền hành rất rộng: nếu <br />các con sớm tỉnh ngộ thì một đời tu cũng có thể trở về cùng Thầy". <br />2- Phần Vô Vi hay là Thiên Đạo: Những bậc xuất thế, chẳng còn bận rộn với nhân tình <br />thế sự chỉ lo tu tập đạo pháp tối thượng bằng phép thiền định đến khi đắc đạo, viên mãn rồi <br />đem sở đắc của mình mà giúp đờị Bằng phương pháp thiền định họ lần lần dẹp bỏ tham, <br />sân, si, thất tình lục dục, lắng dịu tâm hồn để đi vào cõi hư vô tuyệt đốị Đức Ngô Văn <br />Chiêu người đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài tu theo Thiên Đạo lập nên phái Chiếu Minh <br />Vô Vi với Thánh Tịnh tọa lạc tại Cần Thơ, Việt Nam. Khi mới mở đạo, Đức Cao Đài có dạy <br />rằng: "Khoa tịnh luyện dĩ nhiên phải có, nhưng đó là việc saụ" Ngay buổi đầu Ngài có <br />lần ngăn cản nhiều vị muốn đi tịnh và dạy rằng: "Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai". Ngài <br />khuyên tất cả chư môn đệ lo lập công bồi đức; một khi công đầy quả đủ, Ngài sẽ cho <br />một câu cũng đủ thành đạọ<br /><br />Tổ Chức Đạo Cao Đài <br /><br />Vào năm 1926, Đức Cao Đài và Đức Lý Thái Bạch có giáng cơ ấn định tổ chức đạo Cao <br />Đài như sau: <br /><br />I - QUYỀN THIÊNG LIÊNG: <br />Do Bát Quái Đài là cơ quan lập pháp tối cao của Đại Đạo đặt dưới quyền chửơng quản <br />của Đức Cao Đài cùng các Đấng Thiêng Liêng như Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, Khổng Tử, <br />Quan Thế Âm, Lý Thái Bạch Đại Tiên, Quan Thánh Đế Quân, Jesus Christ v. v......Bát Quái <br />Đài là nơi thờ phựơng Đức Thựơng Đế cùng các Đấng Thiêng Liêng. <br /><br />II - QUYỀN HỮU HÌNH: gồm có Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đàị <br /><br />A - Cửu Trùng Đài là cơ quan hành pháp của Đại Đạo thi hành các luật pháp để độ rỗi <br />chúng sanh. Tuy nhiên Cửu Trùng Đài chỉ có quyền về phần xác mà thôị Chỉ có Bát <br />Quái Đài mới có quyền về phần hồn. Cửu Trùng Đài đựơc đặt dưới quyền của Giáo <br />Tông. Dứơi Giáo Tông có những chức sắc như sau: <br /><br />- 3 vị Chửơng Pháp <br />- 3 vị Đầu Sư <br />- 36 vị Phối Sư <br />- 72 vị Giáo Sư <br />- 3,000 Giáo Hữu <br />- Vô số Lễ Sanh <br />- Vô số Chức Việc <br />Chửơng Pháp có nhiệm vụ xem xét luật lệ trước khi đựơc ban hành. Đầu Sư có nhiệm vụ <br />trông nom về phần đời của các tín đồ. Trong 36 vị Phối Sư bầu ra 3 vị Chánh Phối Sư. Ba vị <br />nầy có quyền thay mặt Đầu Sư. Phối sư thi hành trách nhiệm của Chánh Phối Sư giao phó <br />và có thể đứng đầu điều hành một viện tại Toà Thánh. Giáo Sư đứng đầu một Trấn Đạo <br />hay là vùng. Giáo Hữu đứng đầu một Châu Đạo hay là tỉnh. Lễ Sanh đứng đầu một Tộc <br />Đạo hay là quận. Chức Việc đứng đầu một Hương Đạo hay là xã. <br />A - Cửu Trùng Đài là cơ quan lập pháp làm trung gian giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng <br />Đàị Hiệp Thiên Đài là nơi Đức Cao Đài và các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban truyền <br />luật đạo, thánh giáo và cũng là nơi Giáo Tông cầu nguyện thông công với Bát Quái Đàị <br />Hiệp Thiên Đài còn là cơ quan ban hành, gìn giử giáo pháp để tránh tình trạng thất chơn <br />truyền. Hiệp Thiên Đài được đặt dưới quyền của Hộ Pháp.<br /><br />Cao Đài Tiên Ông - Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Là Gì? <br /><br />Đây là danh hiệu đầy đủ mà Đức Thượng Đế mượn để mở đạo Cao Đàị Danh hiệu nầy có ý nghĩa <br />Tam Giáo qui nguyên hay là sự hiệp nhứt của ba nền tôn giáo lớn, Nhân đạo, Tiên đạo, và Phật đạọ <br />Cao Đài ám chỉ Nhân đạo vì Nho giáo có câu: Đầu thượng viết Cao Đài nghĩa là trên đỉnh đầu của <br />mổi người có Đức Cao Đài ngự. Cao Đài do chữ Hán Việt có nghĩa là cái đài caọ <br />Tiên Ông là một phẩm chót của Tiên đạọ <br />Đại Bồ Tát Ma Ha Tát là một phẩm chót của Phật đạọ <br />Danh hiệu Cao Đài Tiên Ôtng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát còn chỉ sự hạ mình của Thượng Đế xuống <br />phẩm chót của các đạọ <br />Thánh ngôn: Ông Thầy cho các con hiểu rằng, buổi tạo thiên lập địạ Thấy sanh ra lòai người nhằm <br />giờ Dần, vậy từ đây Thầy dùng các con làm tay chân mà gầy dựng nên nền chánh giáọ Lại cũng <br />kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại Đạo lấy hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Còn Thầy thì tá <br />danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Trong danh hiệu ấy gồm thâu cả Nho, Thích, Đạọ
mickey
14-01-2013, 12:46 PM
<b>TÌM HIỂU VỀ ĐẠO HỒI</b><br /><br />Hồi giáo (tiếng Ả Rập: الإسل al- islām), còn gọi đạo Hồi, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ nhì trên thế giới và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất, với số tín đồ hiện nay là 1,3 tỷ. <br /><br />Nguyên nghĩa của Hồi giáo trong tiếng Ả Rập là Islam và có nghĩa là "vâng mệnh, quy phục Thiên Chúa". Do được truyền sang Trung Quốc, mà chủ yếu là được người Hồi Hồi (có nơi gọi là Hồi Hột) tiếp nhận, nên phát triển ở trong vùng dân tộc thiểu số này. Người Trung Quốc thấy người Hồi Hồi theo tôn giáo lạ nên mới gọi là "Hồi giáo". <br /><br />Đạo Hồi ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 7 tại bán đảo Ả Rập, do Muhammad sáng lập. Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng Tối Cao, Đấng Duy Nhất (tiếng Ả Rập: الله Allāh). Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh Qu'ran qua Thiên thần Gabriel. <br /><br />Tuy cùng một hệ thống nhất thần của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham nhưng giáo lý Hồi giáo không chịu ảnh hưởng tư tưởng của Cơ đốc giáo và Do Thái giáo. Thể hiện rõ trong kinh Koran (trong 6219 câu của kinh này đã thể hiện nội dung của kinh Cựu Ước và Tân Ước). Không như những tôn giáo bạn, đạo Hồi chỉ có duy nhất một quyển Thiên Kinh Qu'ran, gồm có 114 chương, 6236 tiết. Đối với các tín đồ Hồi giáo, Thiên Kinh Qu'ran là một vật linh thiêng, vì đó chính là lời phán của Allah Đấng Toàn Năng. <br /><br />Người Hồi giáo tin tưởng các vị Sứ giả đến trước Sứ giả Mohamed, kể từ Adam đến Jesus xuyên qua Noah, Abraham, Moise, v.v. Họ cũng tin tưởng Cựu ước và Tân ước là kinh sách của Allah nhưng họ không thi hành theo vì sự lệch lạc do người Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo tạo ra và Thiên kinh Qur'an được Allah mặc khải xuống để điều chỉnh lại những gì đã sai trái ở hai kinh sách đó. <br /><br />* Jesus đối với người Hồi giáo là một Sứ giả rất được kính mến, nhưng họ không tin Jesus là con của Thiên Chúa (Allah), đối với họ Jesus chỉ là một con người, một Sứ giả như mọi Sứ giả khác vì theo quan điểm của Hồi giáo thì Thiên Chúa không có con, như Thiên kinh Qur'an đã phán: <br /><br />Allah là Ðấng Tạo Thiên Lập Ðịa! Làm thế nào Ngài có con khi Ngài không hề có người bạn đường? Chính Ngài là Ðấng đã sáng tạo và thông hiểu tất cả mọi vật." (trích 6:101) <br /><br />* Hồi giáo không chấp nhận tội tổ tông, việc làm của Adam và Eve không phải là nguồn gốc tội lỗi của loài người. Và không có một ai có quyền rửa tội cho một ai khác; ngoại trừ Allah. <br /><br />Sự khác nhau giữa Cựu Ước, Tân Ước và Thiên Kinh Qu'ran trên quan điểm Đấng Toàn Năng như sau: <br /><br />Cựu Ước: <br />Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. <br />—sách Sáng Thế 1:27. <br /><br />Tân Ước: <br />Ta và Cha ta là một. <br />—Tân ước Jean 10:30. <br /><br />Thiên Kinh Qu'ran: <br />Ngài là Đấng Duy Nhất. Allah Đấng Độc Lập và Cứu Rỗi. Ngài chẳng sinh ra ai và cũng chẳng ai sinh ra Ngài. Không một ai đồng đẳng với Ngài. <br />—.112 : 1-4. <br /><br />Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qu'ran cũng liệt kê mười điều tương tự: <br /><br />1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah). <br />2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ. <br />3. Tôn trọng quyền của người khác. <br />4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo. <br />5. Tránh giết người, ngoại trừ trường hợp cần thiết. <br />6. Cấm ngoại tình. <br />7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi. <br />8. Hãy cư xử công bằng với mọi người. <br />9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần. <br />10. Hãy khiêm tốn <br /><br />Ngoài ra tín đồ Hồi giáo có một số luật lệ : <br /><br />* Một lần trong đời, họ phải hành hương về thánh địa Mecca, nhưng với điều kiện họ không vay mượn hay xin phí tổn. Trước khi đi, họ phải lo cho gia đình vợ con đầy đủ những nhu cầu cần thiết trong thời gian họ vắng mặt hành hương. <br />* Nghiêm cấm ăn máu, thịt con vật đã chết trước khi được cắt tiết theo nghi thức; không được ăn thịt lợn vì lợn là con vật bẩn thỉu. <br />* Nghiêm cấm uống rượu và các thức uống lên men. <br />* Nghiêm cấm cờ bạc. <br />* Nghiêm cấm gian dâm và trai gái quan hệ xác thịt trước khi cưới hỏi. <br />* Nghiêm cấm ăn những con vật ăn thịt sống hay ăn tạp (như chó, mèo, chuột, v.v.). <br />* Người Hồi giáo chỉ được ăn thịt halal, tức là thịt đã được giết mổ theo nghi thức của đạo Hồi. Tuy nhiên, trong trường hợp tuyệt đối không có gì ăn, họ được ăn mọi thứ để duy trì sự sống. <br />* Hàng năm phải thực hiện tháng ăn chay Ramadan để tưởng nhớ và biết thương xót người nghèo. Tháng này tính theo lịch Mặt Trăng. Trong tháng này, khi còn ánh sáng Mặt Trời, họ không được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này, con người phải tha thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có mang không phải thực hiện Ramadan. <br />* Hồi giáo nghiêm cấm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo, tín đồ Hồi giáo không được phép chỉ trích cũng như phán xét người khác. Đó là việc của Allah Đấng Toàn Năng. <br /><br />Năm điều căn bản của đạo Hồi: <br /><br />1. Tuyên đọc câu Sahadah: La ila ha il lallah, có nghĩa "Allah là Đấng Duy Nhất để phụng thờ". <br />2. Cầu nguyện ngày năm lần: Sáng sớm, trưa, xế trưa, chiều và tối. <br />3. Bố thí. <br />4. Nhịn chay tháng Ramadan. <br />5. Hành hương tại Mecca.
tamadmin
14-01-2013, 12:46 PM
Câu chuyện về cậu bé người Nepal được coi là "Phật Đà tái thế" <br /><br /> <br />Kể từ khi cậu bé bắt đầu ngồi thiền cho đến nay đã 9 tháng trôi qua, mọi người ở khắp mọi nơi đổ về đây. Câu chuyện về cậu bé đã thu hút sự chú ý, tò mò, và cả những nghi ngờ của những người xung quanh. Giờ đây, cả thế giới biết về cậu bé, tên cậu được nhắc đến ở rất nhiều hãng truyền thông lớn như BBC. Vậy cậu bé có gì đặc biệt đến vậy? <br />Cậu có tên Ram Bahadur Bomjan lớn lên trong một gia đình rất bình thường ở Bara, Nepal. <br /><br /><br />Cậu là em út trong gia đình có 3 anh em, và là đứa trẻ ít nói nhất. Cuộc sống vẫn tiếp diễn cho đến năm cậu 15 tuổi. Ngày đó, Bomjan đã tìm đến hốc cây bồ đề và bắt đầu ngồi thiền. Từ đó cho đến nay, đã 9 tháng trôi qua và cậu bé vẫn tiếp tục ngồi thiền, không ăn, không uống. Theo lời kể của mẹ cậu bé, bà Maya Devi Tamang, ngay sau khi biết cậu bé ngồi thiền không ăn uống, bà đã gần như ngất đi, bà cũng thường đến nơi cậu bé ngồi thiền nhưng cậu không nói chuyện gì với bà cả. Câu chuyện nhanh chóng lan truyền càng ngày càng xa, thu hút vô số sự tò mò của mọi người. Những người dân bản xứ bắt đầu xưng hô cậu bé là Phật Đà Tái Thế. Sự quan tâm đến cậu bé càng ngày càng nhiều đến nỗi những người dân ở đây phải lập một ủy ban bảo vệ cậu. <br /><br />Câu chuyện về cậu bé nơi đất Phật không dừng lại ở đây. Người ta đã được tận mắt chứng kiến cậu bé bị một con rắn cắn, và đó là một trong số vài lần ít ỏi cậu bé thốt lên tiếng và tiếp tục thiền. Rồi cậu bé lại bị rắn cắn lần thứ 2. Những người dân ở đây nói rằng với vết cắn của con rắn như vậy thì cậu bé đáng ra đã chết từ lâu rồi. Tuy vậy, cậu bé vẫn sống, không cần thức ăn, thách thức những lý luận khoa học. Một người bình thường có thể tồn tại không thức ăn trong một vài tuần nhưng không thể thiếu nước trong 3-4 ngày, vậy thì đâu là lời giải thích cho cậu bé. Rất nhiều nhà khoa học đã đến đây để tìm lời giải thích, nhưng họ chỉ được phép tìm hiểu, nghiên cứu mà không được đến gần quá 5 m nơi cậu thiền để không xâm phạm đến quá trình thiền của cậu. Cho đến nay vẫn chưa có một lời giải thích chính xác nào về trường hợp của Bomjan. <br />Đến ngày 19 tháng 01 năm nay, người cậu bé bỗng bốc cháy và làm cháy cả quần áo của cậu, tuy vậy, người ta cũng không nhận thấy bất kỳ một vết sẹo nào trên người cậu bé. Điều này càng làm cho người ta tin rằng cậu là Đức Phật Tái Sinh, cho dù cậu có nói đừng coi cậu là Đức Phật đi nữa. Có một điều mà người dân xứ này nhắc đi nhắc lại là tên của mẹ Đức phật trước đây cũng là Maya Devi....
cpmhoabinh
14-01-2013, 12:46 PM
<!--coloro:#000000--><span style="color:#000000"><!--/coloro--><b>BÌNH PHONG TRONG KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG VIỆT</b><br /> <br /> <br />Ths. Phan Thanh Hải<br /> <br /> <br />Thật khó tưởng tượng được nếu trong không gian của một ngôi nhà truyền thống Việt lại thiếu vắng một chiếc bình phong. Cái vật duyên dáng ấy có khi được đặt ở ngoài sân với đủ kiểu đủ dáng vẻ; có khi được đặt ngay trong nhà với kích thước vừa phải, ngay sau cửa chính; hoặc có khi kết hợp cả hai. Nhưng cái bình phong tưởng thật thân thiết, thật gần gũi ấy hình như từ trước đến nay lại chưa được tìm hiểu thấu đáo. Bài viết dưới đây của tác giả Phan Thanh Hải sẽ là nỗ lực đầu tiên để khắc phục vấn đề này.<br /><br />I. Từ một huyền thoại<br /><br /> <br /> <br />Năm 1636, chúa Nguyễn Phước Lan đã vì sự nghiệp phát triển của Đàng Trong và cả vì mối tình với một cô gái yêu kiều ở đất làng Kim Long mà đã quyết định dời thủ phủ-kinh đô từ Phước Yên về vùng đất tươi đẹp bên bờ con sông Hương mang tên Kim Long. Hơn 50 năm tiếp đó, thủ phủ Kim Long đã được xây dựng thành một “đô thị lớn”, phồn hoa diễm lệ bậc nhất của Đàng Trong khiến không ít giáo sĩ phương Tây khi đến đây đã tỏ ra hết sức thán phục. Vậy mà đến năm 1687, ngay sau khi kế vị, chúa Nguyễn Phước Thái đã cho dời ngay thủ phủ về đất Phú Xuân, cách đó chỉ khoảng 3km. Nguyên nhân của sự dịch chuyển này là do đâu? Các nhà nghiên cứu khi phân tích sự kiện trên đã đưa ra nhiều nguyên nhân, nhưng trong huyền thoại dân gian Huế thì dường như chỉ có một: đó là vì ngọn núi Ngự Bình vốn xưa mang tên là Bình Sơn! Ngọn núi này được trời đất tạo ra dường như là để che chắn cho kinh đô của bậc đế vương. Chính chúa Nguyễn Phước Thái là người đầu tiên nhận ra điều này và ông đã không ngần ngại cho xây dựng lại cả một kinh đô chỉ vì một chiếc bình phong! Cũng từ đó Bình Sơn mới chính thức trở thành Ngự Bình và dần dần trở thành biểu tượng của đất Huế (miền Hương-Ngự)(1).<br /><br />II. Nguồn gốc của bình phong<br /><br />Bình phong có từ bao giờ? Thật khó trả lời chính xác câu hỏi này, chỉ biết rằng, ở phương Đông, từ khi con người biết xây dựng nhà cửa thì các quan niệm về phong thuỷ cũng dần dần xuất hiện và từng bước hoàn thiện, chiếc bình phong ra đời cũng từ các nguyên lý của phong thuỷ học.<br /><br /> <br /> <br />Theo các nhà nghiên cứu về phong thuỷ Trung Quốc, việc sử dụng bình phong cho gia trạch cũng như mộ phần bắt nguồn từ lý thuyết về Triều và án trong Phong thuỷ. Triều có nghĩa là “quay về, hướng về”, viết tắt của chữ Triều sơn, tức chỉ núi quay về, chầu về nhà cửa hay mộ phần - tựa như sự đối ứng giữa chủ và khách. Núi chầu về trong nghĩa triều sơn chỉ những ngọn núi ở phía xa và ở mặt trước. Triều sơn có nhiều loại, có loại đỉnh nhọn, đỉnh bằng, đỉnh tròn.... Trong Phong thuỷ thường chỉ chuộng loại núi tròn đều hay ngang bằng bởi cho rằng loại núi nhọn hay có góc cạnh thường phát ra khí chẳng lành.<br /><br />Còn “Án” vốn nguyên có nghĩa gốc là cái bàn, bàn đương nhiên là đặt trước mặt của người ngồi. Án sơn là để chỉ ngọn núi nhỏ ở phía trước gia trạch hay mộ phần (2).<br /><br />Nói chung, triều và án hết sức cần thiết cho gia trạch và mộ phần, tác dụng của chúng là ngăn cản những ảnh hưởng xấu (theo quan niệm dân gian) hay Hỏa khí (theo thuyết âm dương Ngũ hành) xâm nhập trực diện từ phía trước. Nhưng không phải lúc nào triều và án cũng mang lại những điều tốt lành mà đòi hỏi phải có sự lựa chọn phù hợp nhưng việc lựa chọn này lại hoàn toàn không dễ dàng.<br /><br /> <br /> <br />Thường thì mộ phần đặt ở vùng núi non nên việc chọn triều án khá thuận tiện, nhưng nhà cửa gia trạch lại chủ yếu nằm ở miền đồng bằng nên rất khó tìm triều và án. Trừ trường hợp cung điện đồ sộ của nhà vua thì đương nhiên phải tìm ra triều và án, còn thì đa số quan lại, thường dân chỉ mong tìm được án đã là tốt lắm rồi. Nếu không có án, người ta thường tạo nên những vật thay thế như đắp non bộ, trồng hàng rào hay xây bức tường ngắn... Chiếc bình phong ra đời từ đây. Thuở ban đầu bình phong được làm rất đơn giản bằng các vật liệu dễ kiếm như tre nứa, gỗ, phiến đá, thậm chí bụi cây cũng được. Nhưng càng về sau, bình phong càng ngày càng được chú trọng làm bằng vật liệu bền vững như xây gạch, đắp đá; hình thức của bình phong cũng ngày càng cầu kỳ và phong phú.<br /><br />Người Việt vốn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của văn minh Trung Hoa và các học thuyết Phong thuỷ nên cũng từ rất sớm, chiếc bình phong đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong ngôi nhà của họ. Còn hơn cả người Hán, người Việt đã phát triển quan niệm về chiếc bình phong trở nên phong phú, đa dạng lên nhiều.<br /><br />III. Các loại bình phong<br /><br /> <br /> <br />Đối với đại đa số chúng ta, khái niệm bình phong hầu như không được phân biệt rõ ràng, dù là triều hay án, dù to hay nhỏ đều gọi chung là bình phong. Tuy nhiên trong Phong thuỷ thì không phải như vậy. Như trên đã nói, triều và án là hai khái niệm khác nhau và tác dụng của chúng cũng khác nhau khi áp dụng. Phong thuỷ rất chuộng triều sơn, nhưng trên thực tế thường chỉ áp dụng được cho các công trình có quy mô lớn hoặc cả một quần thể công trình như Kinh đô, lăng tẩm của vua chúa... Ngót ngàn năm trước, khi tìm ra đất Thăng Long, Lý Thái Tổ đã ca ngợi đây là mảnh đất “long bàn hổ cứ” có “sơn triều, thủy tụ”, địa thế tuyệt vời để xây dựng kinh đô. Lê Quý Đôn khi vào tiếp quản đô thành Phú Xuân năm 1775, cũng đã hết lời ca ngợi thế phong thủy của mảnh đất này, đặc biệt là vai trò của triều sơn: “Đất rộng bằng như bàn tay, độ hơn 10 dặm, ở trong là Chính dinh, đất cao, bốn bề đều thấp, tức là chỗ nổi bật giữa đất bằng, ngồi vị Càn trông hướng Tốn; đằng trước quần sơn chầu về la liệt, toàn thu nước về bên hữu, vật lực thịnh giàu”.(3)<br /><br />Nhưng phần lớn đối với các cuộc đất, do không có triều sơn nên người ta chỉ chú trọng đến án. Đối với kinh đô Huế, núi Ngự Bình cũng không phải là triều sơn mà chính là án, cũng như với lăng Thiên Thọ (lăng Gia Long), án chính là ngọn Đại Thiên Thọ Sơn...<br /><br />Thế nhưng án cũng có 2 loại: ngoại án và nội án; ngoại án hay tiền án là chiếc bình phong đặt ở phía bên ngoài, ở phía trước công trình; còn nội án là chiếc bình phong (cũng có khi gọi là trấn phong) đặt ngay trong công trình.<br /><br />Nhìn chung, đối với các công trình lớn, ngoại án thường là các ngọn núi, có thể là núi tự nhiên để nguyên, có thể là núi tự nhiên nhưng được sửa sang lại cho phù hợp, cũng có thể là núi nhân tạo hoàn toàn như ngọn núi nhỏ đắp phía trước phần lăng vua Tự Đức (Khiêm Lăng). Đối với những công trình hoặc cụm công trình có quy mô nhỏ hơn thì ngoại án thường được xây dựng thành một bức bình phong bằng gạch đá, hoặc có thể là một bờ rào, hàng cây, một phiến đá...<br /><br /> <br />Đối với các loại bình phong được xây dựng cẩn thận bằng gạch đá, thường ngoài ý nghĩa về phong thuỷ còn là những công trình mang ý nghĩa trang trí thật sự. Về đại thể, tuy chỉ là một bức tường xây ngang nhưng kỳ thực kiểu dáng và cách thức trang trí của bình phong thì thật vô cùng phong phú. Kiểu bình phong phổ biến nhất có lẽ là kiểu cuốn thư nhưng có rất nhiều biến thể. Các đề tài trang trí trên bình phong cũng đa dạng, nhưng phổ biến nhất vẫn là những con vật trong Tứ linh, gồm long(rồng)-lân-phượng-quy (rùa). Tại các đình làng, các am miếu dân gian, hình tượng long mã hay hổ cũng được sử dụng rất nhiều trên bình phong.<br /><br />Nội án tức chiếc bình phong đặt bên trong công trình, ngay sau cửa chính. Dù có kiểu dáng, hình thức rất phong phú nhưng chúng đều là loại bình phong có thể di chuyển được. Chất liệu làm các loại bình phong này cũng rất đa dạng, bằng gỗ, bằng mây, bằng tre, bằng đá hoặc đá kết hợp với gỗ, thậm chí bằng đồng, bằng bạc, vàng... nhưng có thể nói, gỗ là loại chất liệu được sử dụng phổ biến hơn cả. Hầu hết các bức bình phong được sử dụng làm nội án đều được trang trí rất công phu và có giá trị nghệ thuật cao.<br /><br />Căn cứ vào hình thức kiểu dáng có thể chia nội án thành 2 loại: loại bình phong một tấm cố định và loại bình phong nhiều tấm rời ghép thành.<br /><br />Loại bình phong một tấm cố định phổ biến nhất là có kiểu cuốn thư, được làm chắc chắn, có chân cố định, khi di chuyển phải di chuyển nguyên tấm. Còn loại bình phong nhiều tấm rời ghép thành thường có hình chữ nhật hoặc vuông, do 6,8 hay10 tấm gỗ hình chữ nhật ghép lại với nhau bằng bản lề. Loại này có thể có chân hoặc không có chân, khi di chuyển có thể di chuyển cục bộ từng phần hoặc có thể tháo rời ra để tiện vận chuyển. Kiểu bình phong này hiện còn khá phổ biến tại Nhật Bản, Hàn Quốc (4).<br /><br />IV. Sử dụng bình phong thế nào cho phù hợp<br /><br /> <br /> <br />Đây thực sự là một bí ẩn của Phong thủy học. Sách vở về Phong thuỷ xưa rất hiếm khi đề cập đến điều này, các kiến thức về sử dụng bình phong chủ yếu được truyền thừa qua các thế hệ thầy Địa lý. Phỏng vấn một số thầy Địa lý có uy tín ở khu vực miền Trung thì được biết, kích thước triều sơn không quan trọng lắm, chủ yếu là do dáng vẻ, thần thái của chúng tạo nên; còn kích thước của án (kể cả ngoại án và nội án) thì rất quan trọng đối với chủ nhân công trình. Tuy nhiên, đối với phần đông dân chúng do không hiểu hết các nguyên lý uyên áo của Phong thủy nên thường cho rằng, bình phong cốt để che kín ngôi nhà (hoặc huyệt mộ) cho ấm cúng và ngăn chặn gió độc, hay để ngăn chặn những thứ khí chẳng lành phát ra từ những vật lạ phía trước nhà (cây cối, cột mốc, đường đi...), nên việc dựng bình phong không theo quy chuẩn và kích thước phù hợp, gây mất cân đối cho công trình, ảnh hưởng đến thẩm mỹ thậm chí gây trở ngại cho việc đi lại.<br /><br />Thực ra, theo Phong thủy, nguyên do phải đặt bình phong (kể cả ngoại và nội án) đều nhằm cản bớt hỏa khí xâm nhập quá mạnh vào nhà gây hại cho chủ nhân. Phong thủy căn cứ vào thuyết Ngũ Hành cho rằng, phía trước công trình thuộc Hỏa(phía Nam); bên phải công trình là Kim (phía Tây), tượng cho chủ nhân; bên trái thuộc Mộc(phía Đông) tượng thê tài (vợ, tiền tài); phía sau thuộc Thủy(phía Bắc) tượng tử tôn (con cháu); còn trung ương thuộc Thổ. Quy định này cũng dễ hiểu vì vốn xưa nhà được đắp bằng đất (thổ); nhà sinh ra chủ (Kim), chủ sinh ra con cháu (Thủy) và điều khiển vợ, người làm (Mộc). Ngũ hành tương sinh hay tương khắc tùy thuộc khi ta đặt công trình vào các hướng cụ thể của thiên nhiên. Nếu đặt mặt trước công trình về hướng Nam (đây lại là hướng được người Việt yêu thích nhất khi làm nhà: “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”) thì Hỏa khí càng thêm vượng, dễ gây tổn hại cho chủ nhân nên mới đặt bình phong để ngăn chặn. Còn đối với các công trình xoay mặt về phía Bắc (nhất là các chùa) thì hầu như không sử dụng bình phong vì phía Bắc thuộc Thủy, mà Thủy lại khắc Hỏa. Chính vì những nguyên lý này mà khi làm nhà (hoặc lăng mộ) người ta phải mời thầy Địa lý để có sự nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp.<br /> <br /> <br />Kích thước bình phong thế nào là vừa phải? Theo Phong thủy, khí được dẫn vào công trình từ cổng hay cửa. Trường hợp cổng và cửa công trình cùng một hướng thì Hỏa khí được dẫn trực tiếp vào mặt trước công trình. Trong kiến trúc truyền thống, cửa giữa là cửa chính để chủ nhân ra vào nên bình phong phải làm sao che kín được cửa giữa. Kinh nghiệm của các thầy Địa lý cho biết, kích thước của bình phong thường lấy từ kích thước của cửa giữa công trình nhưng có gia giảm để làm sao đứng từ trung tâm công trình nhìn ra thì cảm thấy bình phong vừa che kín hết cửa giữa là được. Đó là bề ngang của bình phong, còn chiều cao thì lấy theo mái hiên công trình. Nhà cửa xưa mái hiên thường thấp, chiều cao của bình phong (nhất là nội án) làm sao nhìn ngang bằng mái hiên nếu ta đứng từ trung tâm công trình nhìn ra; còn đối với ngoại án, kích thước là phù hợp nếu ta ngồi trên ghế mà cảm thấy có thể gác hai tay vừa vặn trên đầu bình phong (tức như đặt hai tay trên bàn). <br /><br />Khoảng cách đặt bình phong (ngoại án) đối với công trình cũng khá linh động nhưng đều có căn cứ vào kích thước công trình. Theo phần lớn các thầy Địa lý, khoảng cách giữa công trình và bình phong (Phong thủy gọi là Tiểu minh đường) thường lấy tương đương với kích thước bề ngang công trình. Tuy nhiên, nếu do hoàn cảnh, ngoại án phải đặt hơi xa thì cần có một lớp bình phong khác hoặc nội án hỗ trợ. Tiêu biểu là trường hợp Kinh thành Huế, do núi Ngự Bình cách Kinh thành đến 3km, Tiểu minh đường hơi rộng hơn bề ngang Kinh thành (chỉ khoảng 2,2km) nên trước mặt Hoàng Thành đã có thêm Kỳ Đài có vai trò như lớp án thứ hai che chắn cho nhà vua.<br /><br /> <br />Ở Việt Nam, có lẽ Huế là nơi còn giữ lại được nhiều kiểu bình phong nhất. Điều này cũng dễ hiểu vì Huế là cố đô cuối cùng của Việt Nam, lại vẫn giữ được khá nguyên vẹn diện mạo của kinh đô thời quân chủ. Nhưng không chỉ trong kiến trúc cung đình mà ngay cả ở đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ... dường như nơi nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy những bức bình phong được trang trí cầu kỳ, tinh xảo. Tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế hiện nay vẫn còn giữ được một số bức bình phong tuyệt đẹp, trong đó có cả bình phong bằng gỗ loại một tấm cố định, có cả loại ghép nhiều tấm hình chữ nhật đan bằng mây trên khung gỗ, lại có cả những bức bằng đá, bằng bạc, bằng ngà voi được chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Đây thật sự là những kiệt phẩm của các nghệ nhân tiền bối mà mỗi khi đứng trước chúng ta thường có cảm giác như bị mê hoặc hút hồn. Chẳng biết do chúng quá đẹp hay do chúng đã hội tụ được phần nào những điều thần bí của Phong thuỷ. <br /><br />V. Chú thích:<br /><br />(1) Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, tập Kinh sư có phần nói rõ về núi Ngự Bình: “ở Tây bắc huyện Hương Thủy, nổi vọt lên ở quãng đất bằng như hình bức bình phong, làm lớp án thứ nhất trước Kinh thành..” ( Bản dịch của Viện Sử học. nxb KHXH, Hà Nội, tr 107). Vua Thiệu Trị đã từng xếp ngọn núi này là một trong 20 thắng cảnh của đất Thần kinh, có thơ vịnh lấy nhan đề là Bình lãnh đăng cao. Bài thơ được khắc vào bia đá, hiện vẫn còn ở chân núi.<br /><br />(2) Phong thủy không giải thích thật chi tiết vì sao phải dùng triều và án, chỉ thấy truyền lại những câu phú như:<br /><br />Nguyên văn: Tạm dịch: <br />Điện tiền hữu án trị thiên kim<br /><br />Viễn hỉ tề mi cận ứng tâm<br /><br />Án nhược bất lai vi khoáng đãng<br /><br />Trung phòng phá hoại hoạ tương xâm.<br /> Trước điện có án ngàn vàng<br /><br />Xa hợp ngang mày, gần chính giữa.<br /><br />Án nếu không được khoáng đãng,<br /><br />Gia đình bị phá, hoạ tìm ngay.<br /> <br /> <br />Ngoại sơn tác án diệc kham cầu<br /><br />Quan bão nguyên cầu khí bất lưu<br /><br />Túng hữu huyệt tình vô cận án<br /><br />Trung phòng điên bái tẩu tha châu<br /> Núi xa làm án chẳng mong cầu<br /><br />Ôm kín nguyên thần khí chẳng thông<br /><br />Nếu ở gần huyệt không có án<br /><br />Gia đình điên đáo tẩu phương xa<br /> <br /><br />(3) Lê Qúy Đôn toàn tập, tập I: Phủ biên tạp lục. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr.112.<br /><br /> <br />(4) Tháng 7 năm 2003, tại cuộc Hội thảo khoa học “Văn hoá dân gian Đông á với hoạt động bảo tồn và triển lãm” (The Preservation and Exhibition of East Asian Culture in Relation to Folk Craft Aesthetics), bà KATAYAMA Mariko (thuộc Bảo tàng Triều Tiên tại thành phố Kyoto, Nhật Bản) đã trình bày một tham luận rất thú vị về sự tương đồng và dị biệt giữa bình phong Hàn Quốc và bình phong Nhật Bản. Chính qua tham luận này tôi mới biết rằng, tại Nhật Bản và Hàn Quốc hiện nay chỉ còn tồn tại loại bình phong chữ nhật ghép từ nhiều tấm gỗ, còn loại bình phong nguyên tấm như kiểu Việt Nam và Trung Quốc đang sử dụng khá phổ biến thì hầu như không còn.<!--colorc--></span><!--/colorc-->
vBulletin v3.6.1, Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.